Răng hàm sữa là gì? Các công bố khoa học về Răng hàm sữa

Răng hàm sữa là tên gọi khác của răng nhỏ hay răng con, đó là những chiếc răng xuất hiện trong giai đoạn phát triển ban đầu của trẻ em. Thường thì trẻ sẽ có 20 ...

Răng hàm sữa là tên gọi khác của răng nhỏ hay răng con, đó là những chiếc răng xuất hiện trong giai đoạn phát triển ban đầu của trẻ em. Thường thì trẻ sẽ có 20 chiếc răng hàm sữa, bao gồm 10 chiếc răng hàm trên và 10 chiếc răng hàm dưới. Những chiếc răng này sẽ rụng dần và được thay thế bởi răng vĩnh viễn trong suốt quá trình phát triển của trẻ.
Răng hàm sữa là tập hợp các chiếc răng xuất hiện trong giai đoạn phát triển của trẻ em từ khi bé mới sinh đến khi khoảng 6-7 tuổi. Trẻ em thường có tổng cộng 20 chiếc răng hàm sữa, bao gồm 10 chiếc răng trên và 10 chiếc răng dưới.

Răng hàm sữa bao gồm 4 loại răng chính:

1. Răng cắt (incisors): Trẻ em có 8 chiếc răng cắt trong hàm, có nhiệm vụ cắt nhai thức ăn. Mỗi bên hàm trên và dưới có 4 chiếc răng cắt.

2. Răng hàm quanh (canines): Có 4 chiếc răng canines trong hàm, ở vị trí gần răng cắt. Chúng có hình dạng nhọn, giúp xé nghiền thức ăn.

3. Răng tiểu hàm (molars): Trẻ em có 8 chiếc răng tiểu hàm, 4 chiếc ở hàm trên và 4 chiếc ở hàm dưới. Chúng có nhiệm vụ nghiền nhai thức ăn.

4. Răng hàm vị trí ngay sau răng tiểu hàm (second molars): Trẻ em có 4 chiếc răng hàm vị trí ngay sau răng tiểu hàm, 2 chiếc ở hàm trên và 2 chiếc ở hàm dưới. Chúng cũng giúp nghiền nhai thức ăn.

Răng hàm sữa rụng dần và được thay thế bởi răng vĩnh viễn khi trẻ lớn. Quá trình rụng răng bắt đầu thường từ 6-7 tuổi và kéo dài đến 12-13 tuổi. Răng vĩnh viễn sẽ mọc lên để thay thế vị trí của răng hàm sữa, tạo nên hàm răng lớn và đầy đủ của người trưởng thành.
Chi tiết hơn về răng hàm sữa:

1. Răng cắt (incisors): Trẻ em có tất cả 8 chiếc răng cắt - 4 chiếc ở hàm trên và 4 chiếc ở hàm dưới. Răng cắt có hình vuông hoặc hình chữ nhật nhỏ, có cạnh cắt nhọn để cắt và cắn thức ăn.

2. Răng hàm quanh (canines): Có 4 chiếc răng hàm quanh - 2 chiếc ở hàm trên và 2 chiếc ở hàm dưới. Răng hàm quanh là những chiếc răng có kích thước lớn hơn răng cắt, có đỉnh nhọn nhưng không có cạnh cắt. Chúng giúp nắn và xé nghiền thức ăn.

3. Răng tiểu hàm (molars): Trẻ em có tất cả 8 chiếc răng tiểu hàm - 4 chiếc ở hàm trên và 4 chiếc ở hàm dưới. Răng tiểu hàm có kích thước lớn hơn răng hàm quanh và có bề mặt phẳng, giúp nghiền nhai và nghiền nát thức ăn.

4. Răng hàm vị trí ngay sau răng tiểu hàm (second molars): Có 4 chiếc răng hàm vị trí ngay sau răng tiểu hàm - 2 chiếc ở hàm trên và 2 chiếc ở hàm dưới. Răng hàm vị trí ngay sau răng tiểu hàm lớn hơn cả răng tiểu hàm và có bề mặt phẳng, cung cấp thêm không gian để nghiền nhai thức ăn.

Răng hàm sữa bắt đầu xuất hiện từ khi trẻ khoảng 6-10 tháng tuổi. Quá trình rụng răng bắt đầu thường từ 6-7 tuổi và kéo dài đến 12-13 tuổi. Trong quá trình này, răng hàm sữa sẽ chuyển dần từng chiếc để rỗng chỗ cho răng vĩnh viễn phát triển và nổi lên. Răng vĩnh viễn hoàn thiện và thay thế hoàn toàn răng hàm sữa khi trẻ đạt độ tuổi thanh niên.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "răng hàm sữa":

Rea điều chỉnh sự phân cực của tế bào thần kinh đệm và giảm thiểu tình trạng chết tế bào thần kinh thông qua việc ức chế tín hiệu NF‐κB và MAPK nhằm sửa chữa tổn thương tủy sống Dịch bởi AI
Journal of Cellular and Molecular Medicine - Tập 25 Số 3 - Trang 1371-1382 - 2021
Tóm tắtViêm và sự chết tế bào thần kinh làm trầm trọng thêm tổn thương thứ cấp sau chấn thương tủy sống (SCI). Rehmannioside A (Rea) là một chiết xuất thảo dược có hoạt tính sinh học tách biệt từ Rehmanniae radix với độc tính thấp và tác dụng bảo vệ thần kinh. Điều trị bằng Rea ức chế sự giải phóng các chất trung gian tiền viêm từ tế bào thần kinh đệm, và thúc đẩy sự phân cực M2 trong ống nghiệm, từ đó bảo vệ các tế bào thần kinh đồng nuôi khỏi tình trạng chết tế bào thông qua việc ức chế các con đường truyền tín hiệu NF‐κB và MAPK. Hơn nữa, việc tiêm Rea qua đường bụng với liều 80 mg/kg hàng ngày vào mô hình chuột bị SCI đã cải thiện đáng kể các chỉ số hành vi và mô học, thúc đẩy sự phân cực tế bào thần kinh đệm loại M2, giảm thiểu tình trạng chết tế bào thần kinh, và tăng cường sự phục hồi chức năng vận động. Do đó, Rea là một lựa chọn điều trị hứa hẹn cho SCI và cần được nghiên cứu lâm sàng.
Tác động của tình trạng bệnh nặng và việc chưa sử dụng dinh dưỡng tĩnh mạch sớm trong đơn vị chăm sóc tích cực nhi khoa đến hiệu suất thể chất lâu dài của trẻ em: một nghiên cứu theo dõi 4 năm của thử nghiệm ngẫu nhiên PEPaNIC Dịch bởi AI
Critical Care - Tập 26 Số 1 - 2022
Tóm tắt Thông tin nền Nhiều trẻ em bệnh nặng phải đối mặt với những suy giảm phát triển lâu dài. Thử nghiệm PEPaNIC đã quy cho một phần các vấn đề ở cấp độ phát triển thần kinh nhận thức và cảm xúc/hành vi là do việc sử dụng dinh dưỡng tĩnh mạch sớm (early-PN) trong đơn vị chăm sóc tích cực (PICU), so với việc tạm ngừng trong 1 tuần (late-PN). Sự hiểu biết về khả năng chức năng thể chất trong cuộc sống hàng ngày sau khi trải qua bệnh nặng là hạn chế. Cũng chưa rõ việc khởi động dinh dưỡng tĩnh mạch vào thời điểm nào ảnh hưởng đến chức năng thể chất lâu dài của những trẻ em này.
#dinh dưỡng tĩnh mạch #hiệu suất thể chất #theo dõi lâu dài #trẻ em bệnh nặng #thử nghiệm PEPaNIC
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ X-QUANG RĂNG HÀM SỮA CÓ CHỈ ĐỊNH ĐIỀU TRỊ TUỶ BUỒNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 504 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng và X-quang của các răng hàm sữa ở trẻ 3-8 tuổi có chỉ định điều trị tuỷ buồng. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện trên 136 răng hàm sữa có chỉ định điều trị tuỷ buồng ở 50 bệnh nhân trẻ em từ 3 đến 8 tuổi, đến khám và điều trị tại Viện Đào tạo Răng Hàm Mặt, Trường Đại học Y Hà Nội năm 2018-2021. Các răng hàm sữa đạt tiêu chuẩn lựa chọn được mô tả các triệu chứng lâm sàng (gồm có: loại răng; vị trí, kích thước lỗ sâu; tính chất đáy lỗ sâu), X-quang (giai đoạn tiêu chân răng sữa) và các đặc điểm chung của bệnh nhân (tuổi, giới). Kết quả: Trong 50 bệnh nhân trẻ em được khám và điều trị tuỷ buồng, số trẻ nam (28 trẻ, chiếm 56,00%) cao gấp 1,27 lần số trẻ nữ (22 trẻ, chiếm 44,00%), số trẻ 3-5 tuổi (30 trẻ, chiếm 60,00%) gấp 1,5 lần số trẻ 6-8 tuổi (20 trẻ,chiếm 40,00%). Trong 136 răng có chỉ định điều trị tuỷ buồng, vị trí sâu răng hay gặp nhất ở mặt nhai phối hợp mặt bên (60 răng, chiếm 44,12%), sau đó là mặt bên (46 răng, chiếm 33,82%), ít gặp nhất là mặt nhai (30 răng, chiếm 22,06%); loại kích thước lỗ sâu hay gặp nhất là trung bình (60 răng, chiếm 44%); ác chân răng hàm sữa ở giai đoạn I và II. Kết luận: Nghiên cứu cho thấy trong 50 bệnh nhân trẻ em được khám và điều trị tuỷ buồng, số trẻ nam nhiều hơn nữ, số trẻ 3-5 tuổi hay gặp hơn trẻ 6-8 tuổi. Các răng hàm sữa có chỉ định điều trị tuỷ buồng thường có lỗ sâu ở vị trí mặt bên phối hợp mặt nhai và kích thước trung bình; chân răng ở giai đoạn I hoặc II.
#Điều trị tuỷ buồng #răng hàm sữa #sâu răng
Đặc điểm sâu mặt bên răng hàm sữa ở trẻ em 5 - 8 tuổi tại Bệnh viện Nhi Trung ương năm 2020
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng sâu răng mặt bên răng hàm sữa ở trẻ em 5 - 8 tuổi tại Bệnh viện Nhi Trung ương năm 2020. Đối tượng và phương pháp: 134 bệnh nhi từ 5 - 8 tuổi, đến khám tại Bệnh viện Nhi Trung ương, từ tháng 01/2020 đến tháng 12/2020. Phương pháp: Mô tả cắt ngang. Kết quả và kết luận: Tỷ lệ răng hàm sữa có sâu răng mặt bên cao, hay gặp nhất là các lỗ sâu ở vị trí giữa hai răng hàm sữa, hàm dưới hay gặp hơn hàm trên. Tổn thương tủy: 58,8% răng hàm sữa bị sâu chưa tổn thương tủy; 31,8% răng bị chết tủy và 9,4% răng viêm tủy không hồi phục. Phân loại lỗ sâu: 8,6% size 1; 67,3% size 2, 22,3% size 3, 1,8% size 4. Khoảng cách từ lỗ sâu tới sừng tủy: 76,1% < 2mm; 23,9% ≥ 2mm.
#Sâu răng mặt bên #sâu răng hàm sữa #trẻ em
THỰC TRẠNG TIÊU VIÊM CHÂN RĂNG HÀM SỮA Ở BỆNH NHÂN 5-8 TUỔI ĐẾN KHÁM TẠI VIỆN ĐÀO TẠO RĂNG HÀM MẶT VÀ BỆNH VIỆN RĂNG HÀM MẶT TRUNG ƯƠNG HÀ NỘI NĂM 2020-2021
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 503 Số 1 - 2021
Tiêu viêm chân răng sữa là một hiện tượng thường gặp trong thực hành lâm sàng của các bác sĩ răng trẻ em và có thể gây những hậu quả đáng tiếc nếu không được phát hiện, điều trị kịp thời. Nghiên cứu nhằm mục đích mô tả tỉ lệ tiêu viêm chân răng ở 1282 răng hàm sữa trên 170 trẻ từ 5 đến 8 tuổi đến khám tại Viện đào tạo Răng Hàm Mặt và Bệnh viện Răng Hàm Mặt Trung Ương Hà Nội năm 2020-2021. Tình trạng tiêu viêm chân răng hàm sữa được đánh giá thông qua hỏi bệnh, khám lâm sàng và khảo sát trên phim panorama. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỉ lệ tiêu viêm chân răng hàm sữa là 23,63%, trong đó tỉ lệ này ở các nhóm răng sâu có tổn thương tủy răng, các răng điều trị tủy kém không làm chụp, các răng trám thất bại lần lượt là 56,77%; 23,1%; 10,23%. Kết luận: nhóm các răng sâu có tổn thương tủy răng trong nghiên cứu có tỉ lệ tiêu viêm chân răng cao nhất trong khi nhóm các răng đã điều trị tủy tốt được làm chụp và nhóm răng trám thành công không thấy có hiện tượng tiêu viêm chân răng.
#tiêu chân răng #Viện đào tạo Răng Hàm Mặt #Bệnh viện Răng Hàm Mặt Trung ương Hà Nội
MÔ TẢ SỰ HÀI LÒNG CỦA NGƯỜI THÂN CÓ TRẺ TỪ 4-8 TUỔI ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ PHỤC HỒI THÂN RĂNG HÀM SỮA BẰNG CHỤP THÉP TẠI BỆNH VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y KHOA VINH NĂM 2022
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 523 Số 2 - 2023
Trẻ em có số lần thay thế lại những miếng trám Amalgam lớn hoặc nhiều mặt là 2-4 lần trong năm và rất khó khăn phục hồi lại hình thể thân răng phù hợp với các vật liệu này. Đặc biệt là các răng đã điều trị tủy thì thường bị gãy vỡ sau đó mất sớm để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng. Để giải quyết các vấn đề này, chụp thép đúc sẵn đã được sử dụng trong nha khoa phục hồi răng trẻ em. Nghiên cứu  nhằm mục tiêu mô tả sự hài lòng của người thân có trẻ từ 4-8 tuổi được điều trị phục hồi thân răng hàm sữa bằng chụp thép tại bệnh viện Trường Đại học y khoa Vinh năm 2022. Nghiên cứu triển khai trên 13 người thân có bệnh nhân được chỉ định điều trị chụp thép. Kết quả cho thấy tỷ lệ hài lòng chung về sự thuận tiện 76,9%, chất lượng 84,6%, kiểm soát đau cho trẻ 92,3%, chi phí điều trị là 84,6%.  
#hài lòng #DSQ #chụp thép
SO SÁNH HÌNH THÁI RĂNG HÀM SỮA THỨ HAI VỚI HỆ THỐNG CHỤP THÉP TIỀN CHẾ SỬ DỤNG MÁY QUÉT 3D
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 539 Số 1B - Trang - 2024
Nghiên cứu cắt ngang mô tả đánh giá kích thước trung bình răng hàm sữa thứ hai (RHSII) bên trái hàm trên và dưới của nhóm trẻ từ 4 đến 6 tuổi tại Hà Nội, sử dụng máy quét 3D. Từ đó so sánh độ tương đồng giữa kích thước RHSII đo được của nhóm trẻ trên với kích thước của chụp thép tiền chế GNI và Shinhung nhằm ứng dụng trên lâm sàng giúp bác sĩ có thể lựa chọn kích thước chụp phù hợp và bảo tồn răng sữa. Kết quả nghiên cứu cho thấy: Kích thước trung bình của RHSII trên trẻ nam lớn hơn trẻ nữ, đặc biệt ở là kích thước chiều gần-xa của RHSII hàm dưới (nam: 10,57 ± 0,44mm, nữ: 10,13 ± 0,56mm) và chiều cao của RHSII hàm trên (nam: 4,78 ± 0,46mm; nữ: 4,32 ± 0,55mm) (p<0,05). Dựa theo kích thước trung bình của RHSII, đối với trẻ nam bác sĩ lâm sàng có thể ưu tiên chọn cỡ chụp thép GNI tương ứng là cỡ 4 cho hàm trên và cỡ 5 cho hàm dưới. Đối với trẻ nữ, cỡ chụp thép GNI ưu tiên· với RHSII là cỡ 4 cho cả hàm trên và dưới. Đối với hệ chụp Shinhung, cỡ chụp ưu tiên cho RHSII ở hai hàm trên - dưới lần lượt là 3 và 4 ở giới nữ, 4 và 5 ở giới nam.
#hình thái răng hàm sữa #chụp thép tiền chế #scan 3D
Ảnh hưởng của liều lượng và loại chế phẩm phân đạm đến năng suất lúa và phát thải khí N2O trên đất nhiễm mặn tại huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng
Tạp chí Khoa học Đại học cần Thơ - Tập 56 - Trang 185-190 - 2020
Các chế phẩm phân đạm chứa chất ức chế enzyme urease nBTPT và chất ức chế tiến trình nitrate hóa DCD được nghiên cứu trên đất lúa nhiễm mặn ở Trần Đề, Sóc Trăng trong vụ HT2018 và ĐX2018-19. Mục tiêu đề tài là nhằm đánh giá hiệu quả các chế phẩm phân bón phối trộn nBTPT và DCD đến năng suất lúa, hiệu quả kinh tế và phát thải khí nhà kính. Kết quả cho thấy, phối trộn hoạt các hoạt chất nBTPT và DCD+nBTPT với phân ure giúp tăng năng suất lúa 0,55-0,74 tấn/ha so với ure không phối trộn. Việc phối trộn các hoạt chất giúp tăng lợi nhuận, tăng hiệu quả nông học và giảm phát thải khí N2O so với ure không phối trộn cả 2 vụ.
#Chất ức chế thủy phân ure #chất ức chế nitrate hóa #hoạt chất DCD #nBTPT #phát thải khí nhà kính
ĐẶC ĐIỂM XQUANG CỦA BỆNH NHÂN CÓ RĂNG HÀM SỮA CẦN ĐIỀU TRỊ LẤY TUỶ BUỒNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 526 Số 2 - 2023
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm Xquang của một nhóm bệnh nhân từ 4-8 tuổi, có các răng hàm sữa được chỉ định lấy tủy buồng. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện trên 173 trẻ từ 4-8 tuổi, có răng hàm sữa sâu có chỉ định điều trị tuỷ buồng; trẻ được khám lâm sàng và chụp Xquang để đánh giá tình trạng lỗ sâu cũng như tình trạng của tổ chức quanh răng. Kết quả: Đa số các răng có tổn thương ở giai đoạn 2 nhưng vẫn có tới 28,0% răng 85 và 25,0% răng 55 bị tổn thương khi đang ở giai đoạn 1; Tỷ lệ lỗ sâu thông thương buồng tuỷ trên Xquang được chẩn đoán là viêm tuỷ không hồi phục chiếm tỷ lệ cao nhất trong các bệnh lý, tỷ lệ này là 26,6% ở răng 84, tiếp đến là răng 54 (25,8%) và thấp nhất ở răng 55 (10,5%). Không gặp các răng có hội chứng vách. Kết luận: Tất cả các răng có lỗ sâu đã thông thương với buồng tuỷ trên phim Xquang đều bị viêm tuỷ hoặc hoại tử tuỷ. Các răng hàm sữa hàm dưới có tỷ lệ hoại tử tuỷ có và không có biến chứng nha chu cao hơn các răng hàm trên.
#răng hàm sữa #bệnh lý tuỷ #lấy tuỷ buồng #Xquang răng sữa
THỰC TRẠNG NHIỄM CHÌ TRONG SỮA VÀ SẢN PHẦM TỪ SỮA TẠI ĐẮK LẮK NĂM 2020
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 511 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Xác định mức độ nhiễm Chì trong một số loại sữa, sản phẩm từ sữa tại Đắk Lắk, năm 2020. Đối tượng và phương pháp: Chọn 150 sản phẩm sữa, bánh sữa và phomai được tiêu thụ phổ biến nhất tại khu vực nghiên cứu, trong đó 10 sản phẩm sữa bột, 40 sản phẩm sữa lỏng, 70 sản phẩm sữa chua, 10 sản phẩm phomai và 20 sản phẩm bánh sữa được thu thập từ các trạng trại, cơ sỏ sản xuất, kinh doanh sữa. Đánh giá mức độ ô nhiễm Chì. Kết quả: Trong 150 mẫu nghiên cứu thì có tới 55 mẫu nhiễm (chiếm 36,7%) với hàm lượng Chì trung bình là 6,17  ± 1,03 µg/L; trong đó, hàm lượng Chì trung bình của phomai lớn nhất (22,91 µg/kg), sau đó đến bánh sữa (9,11 µg/L), sữa bột (6,98 µg/L), sữa chua (4,72 µg/L) và thấp nhất là sữa lỏng có nồng độ Chì chỉ bằng một phần mười so với phomai là 2,84 µg/L. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng cho thấy có 18 mẫu(chiếm 12%) vượt quá tiêu chuẩn cho phép theo QCVN 8-2:2011/BYT (20 µg/L). Kết luận: Việc tiêu thụ các sản phẩm này trong thời gian dài có thể ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng.
#Chì #sữa #sản phẩm từ sữa
Tổng số: 43   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5